Bài hát với ca từ giản dị, gợi nhớ tình yêu quê hương và tình yêu đôi lứa mang đậm chất dân gian. Ngày Xuân Vui Cưới - Nam Cường, Vân Trang Với 2 giọng ca trẻ trên, bài hát được đông đảo giới trẻ yêu thích. Các ca khúc Nhạc vàng sau này được phối và biểu diễn lại bởi những ca sĩ trẻ.
Tham khảo ngay 10 cách phối đồ đi đám cưới cho nam thu hút mọi ánh nhìn. Xem nhanh. 1. 10 cách phối đồ để đi dự đám cưới cho nam. Áo vest, quần jean và giày sneaker. Áo khoác da, quần jean và chelsea boot. Áo thun và áo khoác sơ mi. Áo blazer, áo thun và quần âu. Áo khoác dạ và
Mới đây, đám cưới của một cặp đôi tại Nam Định đã khiến cư dân mạng trầm trồ bởi cách bài trí như cung điện, màn rước dâu bằng siêu xe và chiếc máy bay với chi phí lên tới hàng tỷ đồng. Mới đây, đám cưới của một cặp đôi tại Nam Định đã khiến cư
Giày cưới nam Tassel Loafer là biểu tượng của sự hài hòa, thanh lịch và phóng khoáng. Là mẫu giày không thể thiếu của phái mạnh. Diễn viên Paul Lukas được xem như là cha đẻ của mẫu giày nam không dây có nơ này. Ông luôn muốn tạo ra một mẫu giày da nam đẳng cấp có sự sáng tạo mới lạ và độc đáo nên khi mua
Thông tin ban đầu cho biết, vào khoảng 16h chiều 24/6, Nguyễn Văn Hoài (27 tuổi, trú tại xã Đắk N'drót, huyện Đắk Mil) và Trần Văn Cường (40 tuổi, trú tại xã Đắk R'la, huyện Đắk Mil) cùng nhau trú mưa tại một quán bida trên địa bàn xã Đắk R'la. Trong lúc trú mưa, cả Cường và Hoài vào quán để xem mọi người đánh bida.
Dưới đây là những nơi tốt nhất để mua ban nhạc đám cưới của nam giới. 1. Ban nhạc nam tính. Ban nhạc nam tính tự hào về việc bán 'không phải ban nhạc bình thường của bạn.'. Và điều đó khá chính xác. Công ty ban nhạc đám cưới cung cấp các loại nhẫn cổ điển, nhung
dWmXkt. Một đám cưới gồm sáu người lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ... Một đám cưới vẻn vẹn có hai người bước trên con đường về xóm ngụ cư tồi tàn, trong cái cảnh tối sầm vì đói khát, giữa không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người... Hai đám cưới tựa như hai bức tranh minh họa cho cái vụ đói khủng khiếp diễn ra ở miền Bắc nước ta hồi tháng 3/ 1945. Tuy có những mảng màu sáng tối khác nhau nhưng cả hai đều được vẽ nên từ chất liệu hiện thực cuộc đời và tinh thần nhân đạo đậm nét. Nam Cao và Kim Lân đã để lại cho chúng ta hai "đám cưới" thật đặc sắc và cảm động. Trong cuộc sống, có những sự kiện đặc thù giúp chúng ta nhìn rõ hoàn cảnh xã hội. Đám cưới là một sự kiện như vậy. Đây là cảnh tượng biểu hiện rất tập trung trạng thái nhân thế, phong hóa xã hội; là sự kiện vui nhất của một đời người. Ây vậy mà hai đám cưới ở đây được miêu tả khác hẳn. Bao trùm lên tất cả là một không khí buồn bã, ảm đạm và những giọt nước mắt. Đó là nét chung đầu tiên mà người đọc cảm nhận được qua "Một đám cưới" Nam Cao và "Vợ nhặt" Kim Lân. Nam Cao viết "Một đám cưới" năm 1944, khi mà cái đói mon men tới gần, len lách vào từng ngõ nhỏ cuộc đời những người dân lao động, vốn đã cơ cực, triền miên trong bần cùng khốn khó, nay họ lại lao đao trước vực thẳm của sự đói nghèo. Qua đám cưới của Dần, một cô bé mới 14, 15 tuổi, tác giả đã tái hiện một cách rất chân thực không khí của những ngày đói kém. Còn Kim Lân, qua câu chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ cũng góp phần làm sinh động hơn vụ đói khủng khiếp ấy. Cả hai tác phẩm đều thuộc dòng văn học hiện thực, đối tượng mà Nam Cao và Kim Lân miêu tả đều là những người dân lao động lam lũ trong những làng quê nghèo khó. Điều đó cũng dễ hiểu. Bởi lẽ nạn đói lan đến đâu thì người khổ nhất, đói nhất vẫn là những người dân ấy. Đặc biệt, cả hai tác giả đều nhân sự kiện "cưới chạy đói" ở nông thôn thời ấy để phản ánh hiện thực. Có lẽ chính vì vậy mà giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm càng trở nên sâu sắc. Cả hai tác phẩm đều mang cái không khí ảm đạm, buồn thảm của đói kém nhưng lại có cái ấm áp của tình yêu thương đùm bọc trong một gia đình nông dân nghèo, của sự chia sẻ, cảm thông giữa những người khốn khổ trong cơn bĩ cực. Có ngẫu nhiên chăng khi người khốn khổ trong cơn bĩ cực. Có ngẫu nhiên chăng khi người chồng của Dần Một đám cưới và người vợ của Tràng Vợ nhặt đều là những nhân vật không tên? Phải chăng đó đều là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Tuy có nhiều điểm chung nhưng hai tác phẩm cũng thể hiện những nét khác biệt. Đám cưới của Dần dâu sao cũng có vẻ "sang" hơn đám cưới của Tràng. Cô bé ấy được cưới xin cẩn thận. Còn Tràng, chỉ vài câu bông đùa, mấy bát bánh đúc thế mà tự nhiên có vợ. Truyẹn ngắn của Kim Lân hấp dẫn người đọc có lẽ cũng bởi tình huống truyện độc đáo ấy. Nhưng người đọc đều nhận thấy cả hai kiểu "nên vợ nên chồng" ấy đều toát lên cái nghèo khó, thảm hại. Đám cưới của Dần, đầy đủ hơn nhưng vẫn phô bày nguyên trạng một đám cưới chạy đói. "Chú rể xách một chẽ cau chừng một chục quả, bà mẹ khoác cái áo nâu dài đã bạc ở trên vai.. Dần mặc những áo vắi' ngày thường nghĩa là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch va cũng vá nhiễu chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách". Còn vợ Tràng "cắp cái thúng con đầu hơi cúi xuống", cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt". Một đám cưới đi trong đêm sương lạnh, một đám cưới về trong chiều tàn u uất, ảm đạm. Dù là ngòi bút của Nam Cao hay Kim Lân cũng có những đoạn văn ám ảnh về cái đói lan tràn. "Dưới những gốc đa, góc gạo xù xì bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạb ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết". Khung cảnh ấy khiến ta không thể không liên tưởng đến ý nghĩ lễ rước dâu của Tràng đang diễn ra bên cạnh những bóng ma đói vật vờ. Cái đói đang gặm nhấm những con người ở xóm ngụ cư tồi tàn. Những cuộc đời mỏi mòn đang sống dật dờ bên lề số phận như một quá trình chết mòn. Họ đợi chờ một cái chết dần dần như ngọn lửa ăn từ từ vào thân nến. Nam Cao cứ nhẩn nha miêu tả cái đói. "Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm. Gạo kém, thóc cao. Ngô, khoai cũng khó chuốc được mà ăn. Thậm chí đến hạt muối cũng sinh ra hiếm nốt..". Đằng sau những lời văn tưởng như sắc lạnh ấy là một tâm hồn tràn ngập lòng thương cảm của tác giả. Bữa cơm cưới của Dần diễn ra âm thầm, trong một không khí nặng nề, buồn bã. "Ba bố con lặng lẽ ăn. Người cha ăn vài lượt cơm, rồi buông bát đũa.. Thằng lớn và cơm phùng mồm ra bị nghẹn mấy lần". Bữa cơm của gia đình Tràng diễn ra còn thảm hại hơn nhiều. "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và đĩa muối ăn với cháo". Món "chè khoán" của bà cụ Tứ khiến cho cảm giác buồn tủi, cay đắng trong gia đình tăng thêm "miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong, tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người". Dần đi lấy chồng và có lẽ cô bé hiểu được vì sao phải làm thế. Tràng có vợ mà vẫn chưa hết ngạc nhiên. Hai bà mẹ trong hai tác phẩm thì hoàn toàn khác nhau. Mẹ chồng Dần nhanh nhảu, khéo ăn khéo nói, với suy nghĩ phải khôn ngoan làm sao cho được việc. "Tài ăn nói của người ta, một đời mới có dịp dùng đến đọ vài lần... công việc của bà, mười phần đã xong đến chín phần rồi. Còn một tí chút nữa mà thôi. Tội gì không ngọt ngào với người ta cho yên ổn cả". Ngược lại, bà cụ Tứ sau cái giây phút ngỡ ngàng thì tràn ngập tình thương đối với đôi vợ chồng mới. Bà không mau mồm mau miệng, bà rất kiệm lời nhưng người đọc lại dành cho bà một tình cảm lớn. Đọc "Một đám cưới", người đọc lại bắt gặp những giọt nước mắt. Từ hình ảnh Dần "khóc hu hu" khi về thăm nhà, "khóc đến quá nửa đêm" khi biết phải đi lấy chồng đến khi "khóc nấc lên" lúc phải xa cha. Trong tác phẩm còn có những giọt nước mắt thổn thức rơi trong lòng người bố. "Vợ nhặt" có xen cả những tiếng cười. Ngoài dòng nước mắt thương con, tủi phận của bà cụ Tứ, tiếng hờ khóc tỉ tê, câu chuyện dường như tươi sáng hơn nhờ những tiếng cười. Đó là tiếng "reo cười" của bọn trẻ con, "cười hềnh hệch" của Tràng, nhưng cũng đủ làm "cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc". Chi tiết này làm chúng ta nhớ đến cái xôn xao của phố huyện mỗi lần chuyên tàu đêm chạy qua trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" Thạch Lam. Tiếng cười "rung rúc" của người dân xóm chợ, tiếng "cười khanh khách" của Tràng, cái cười "đon đả" của mẹ Tràng... Tất cả những chi tiết Kim Lân miêu tả tiếng cười trong truyện làm cho không khí của "Vợ nhặt" đỡ u ám hơn "Một đám cưới". Chính điều này cũng làm cho chủ đề hai tác phẩm có những nét khác biệt. Đọc "Một đám cưới" của Nam Cao, bên cạnh bức tranh hiện thực xám xịt là một tấm lòng trong trẻo, hiếu thảo của Dần. Mới 14, 15 tuổi, cô bé ấy đã quán xuyến, xếp đặt công việc nhà cửa rất chu đáo. Ta như được gặp lại cô bé Liên đảm đang, chịu khó Hai đứa trẻ. Không chỉ có thế, qua each nói chuyện với bố, ta còn nhận thấy một tâm hồn nhạy cảm, một nếp suy nghĩ "già" hơn tuổi của nó rất nhiều. Phải chăng cũng như Liên, Dần là một trái cây chín sớm bởi nắng gió cuộc đời. Yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ, Dần đi ở từ năm mười hai. Chi tiết ấy còn gợi lại cho chúng ta hình ảnh cái Tí Tắt đèn lúc bị bán cho nhà Nghị Quế. Cũng vì thương cha và các em, Dần đi lấy chông. Dân được Nam,Cao miêu tả khóc nhiều lần, nhưng có lẽ chỉ một lần Dân khóc cho mình. Ay là khi cô bé "khóc hu hu" đòi ở nhà chịu khổ chứ không ở cho nhà bà Chánh nữa, khi ấy Dần mới mười hai tuổi. Cho đến tận lúc ta nghe thấy tiếng nức nở cuối cùng của Dần "Thầy đừng... đi... lên rừng", ta chợt hiểu thêm tấm lòng của cô bé ấy. Tất cả những lần khóc sau nàỵ, cô cũng chỉ nghĩ đến thương cha, thương em mà thôi. Nam Cao đã khắc họa rất thành công vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, giản dị, đức hi sinh thâm lặng, cao đẹp của cô bé. "Vợ nhặt" của Kim Lân mang một chủ đề khác. Cũng trên cái nền hiện thực xanh xám, lởn vởn những bóng ma, giữa bầu không khí tưởng như ngạt thở ấy là một khát vọng vươn lên sống, khát khao hạnh phúc, vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng. Ta cũng nhận thấy bầu không khí của chuyện khi chùng khi giãn, xen kẽ buồn vui. Giữa cái đói đang giằng xé, những người dân xóm chợ vẫn có giây phút "khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ". Thì ra họ vẫn còn yêu cuộc đời lắm. Có yêu cuộc đời họ mới "bàn tán" trước cảnh Tràng đi với cô "vợ nhặt". Họ vẫn còn quan tâm đến cuộc sống của người khác dù sau tiếng cười vui, hiẹn thực lại xuất hiện trong mắt họ "Biết có nuôi nhau sống qua được cái thì này không?" Và họ nín lặng. Nhưng ta tin vào khát vọng sống của họ biết bao. Trong gia đình Tràng cũng có những lúc không khí "co giãn" như thế. Sau cái buổi tối kết thúc bằng tiếng hờ khóc ngoài xóm vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ, thì sáng hôm sau Tràng tiếp xúc với bầu không khí khác hẳn. Trước mắt anh ta là một "cảnh tượng thật đơn giản, bình thường" mà "lại rất thấm thìa cảm động" để rồi bông nhiên nhen nhóm trong Tràng tình cảm yêu thương gắn bó với gia đình. Giữa cái nạn đói - cái nạn đói mà lịch sử nước ta co lẽ chẳng thể nào quên ấy - có được những tia sáng của hi vọng và niềm tin vào cuộc đời như vậy thật đáng trân trọng. Trước cách mạng, Nam Cao chưa có cái nhìn tươi sáng như thế. Kết thúc của câu truyện "Một đám cưới" để lại cho người đọc những dòng suy nghĩ không dứt, những câu hỏi xung quanh cái kết mà như mở ấy. Rồi Dần sẽ sống ra sao? Bố Dần có lẽ vẫn quyết định lên rừng một chuyến? Số phận của những đứa em Dần liệu có sang sủa lên không? Kim Lân thì khác. Cái kết của "Vợ nhặt" để lại một niềm tin rằng Tràng rồi cũng sẽ tham gia vào đoàn người phá kho thóc Nhật. "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đội và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Hình ảnh lá cờ đo trong đầu Tràng tựa như một nguồn sáng tỏa ấm, phá vỡ cái bầu không khí thảm đạm, tưởng như bế tắc của cuộc sống. Đến một người như Tràng - một người tưởng như chả suy ngẫm gì nhiều - mà còn có được suy nghĩ như thế thì chắc chắn những người dân xóm chợ cũng ý thức được điều đó. Cả Nam Cao và Kim Lân đều có chung một kiểu kết cấu truyện. Mở đầu là không gian của hiện tại và xen giữa hiện tại là các khoảng hồi tưởng về quá khứ rồi kết thúc ở hiện tại. Điều này rất thường gặp ở những truyện ngắn của Nam Cao. Mặc dù "Một đám cưới" mở ra lúc trời chưa sáng "còn tối om" hay "Vợ nhặt" bắt đầu vào chập tối "lúc chạng vạng mặt người" thì hai khoảnh khắc ấy dường như rất gần nhau. Cái thê thảm, nhợt nhạt của cuộc sống đói quay đói quắt càng được nổi rõ qua màu thời gian nhờ nhờ, tôi tối ấy. Tuy nhiên, Nam Cao khép câu chuyện lại trong một không gian tối, còn Kim Lân kết thúc ở khoảng sáng của một ngày mới. Tính về thời gian, hai chuyện diễn ra trong hai khoảng thời gian gần như bằng nhau. Tuy nhiên chính cách chọn thời điểm để mở và kết truyện cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Thế là đã có hai đôi "nên vợ nên chồng". Một người vì thương cha, thương em mà lấy chồng. Một người vì thương thân, vì miếng ăn mà cũng liều nhắm mắt sàng ngang. Cả hai đám cưới đều là để chạy đói, để duy trì sự sống. Chọn sự kiện này, Nam Cao và Kim Lân đã phản ánh rất chân thực về cái đói, về cuộc sống khốn khó của những người dân. Tuy nhiên nếu chỉ xét ở khía cạnh ấy thì thật khập khiễng. Có lẽ cái cốt yếu chung nhất của hai tác phẩm là cái gốc nhân đạo cao cả và sâu sắc của các tác giả. Cuộc đời của Dần coi như đã định sẵn nhưng còn lại trong ấn tượng của người đọc không phải là một đám cưới buồn lặng, sầu tủi. Ân tượng in đậm nhất vẫn là tấm lòng hiếu thảo của một cô bé thông minh, chịu khó. Người con gái không tên kia dẫu có vì miếng ăn mà lấy chồng thì ta cũng không trách thị. Bởi còn lại trong ta không phải là sự u ám, xác xơ, heo hút, điêu tàn của xóm ngụ cư mà là không khí đầm ấm, đùm bọc, yêu thương lẫn nhau. Đặc biệt là khát vọng sống mãnh liệt vươn lên trong mỗi người dân lao động nơi đây. Dù có những nét tương đồng và khác biệt, dù là cách diễn đạt này hay diễn đạt kia thì Nam Cao và Kim Lân vẫn xuất phát từ một điểm chung nhân đạo. Chẳng phải thế sao? Ca ngợi, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người cũng là nhân đạo. Phản ánh hiện thực cũng bắt nguồn từ nhân đạo. Nói lên khát vọng, mơ ước cao đẹp của con người là gì nếu không phải từ lòng nhân đạo? Chính vì thế, nhìn từ góc độ này ta thấy nó giống nhau, nhìn từ góc độ kia ta lại thấy hoàn toàn khác. Cái chung là từ những cái riêng. Riêng và chung, tương đồng và khác biệt nhiều khi là một. Cho nên, không đúng và cũng thật khó khăn nếu có ai đó định tìm sự hơn hẳn của tác phẩm này với tác phẩm kia. Chúng ta cần phải công nhận rằng đó là hai bức tranh rất độc đáo, đặc sắc và tiêu biểu cho nền văn học hiện thực lúc bấy giờ. Đọc "Một đám cưới" của Nam Cao và "Vợ nhặt" của Kim Lân tôi chợt nhớ đến một câu nói của Lỗ Tấn trong tác phẩm Cố hương "Trên thế giới này vốn làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi...". Quả đúng như thế. Nam Cao và Kim Lân cũng đều đi trên một con đường mà thôi - con đường được xây nên bằng mối quan hệ hiện thực và nhân đạo. Chỉ có điều mỗi nhà văn có cách đi riêng của mình và họ đã bước những bước chân không trùng nhau.
Ngày đăng 05/03/2021, 1732 Thôi thì bây giờ mọi sự ông đã thương cho cháu cả rồi, hôm nay tiện được ngày, tôi cũng biện cơi trầu đến kêu với ông để ông cho cháu được lễ các cụ - trước là lễ gia tiên, sau là lễ b[r] 1Một đám cưới Nam Cao Dần thức dậy nhà cịn tối om om êm tháng chạp, trời lâu sáng Thật gà gáy lâu Tiếng gà gáy xơn xao Và óc Dần lưởng vưởng ý nhớ mơ hồ, giống người ta nhớ lại chốn qua giấc chiêm bao Dần chưa tỉnh hẳn ra, Dần thấy tiếng gà gáy mong manh, xa xôi vẩn lên giấc ngủ nửa mê nửa tỉnh Rồi Dần tỉnh hẳn Có lẽ tiếng gáy cộc lốc anh gà trụi chuồng gà nhà bên cạnh Con gà thời kỳ tập gáy, tiếng gáy ngắn vang động gà có sức Dần phác lại tưởng tượng hình dung lộc ngộc nó, lấc cấc vụng dại anh trai mười sáu tuổi, đôi chân cao, cổ trần ngất nghểu, mào đỏ khè nhu nhú, đuôi cụt ngủn Anh chàng hay sang nhà tãi gio, tãi rác, khiến bực lần toan chết Dần nhỏm dậy Nó sờ soạng khỏi ổ rơm thẳng ngồi Bên ngồi mịt mù sương Khí lạnh sắc dao Dần rùng hắt ln Nó thấy cần phải động đậy ngay, cần phải làm việc cho nóng người rét mà lại cịn đứng co ro tổ rét Nó mải mốt vơ lấy chổi để quét sân, quét ngõ Việc quét tước chẳng sáng qn làm, dù sân nhà có bẩn hay khơng thói quen thói quen dậy từ lúc đêm Nết chăm ấy, học năm Dần từ năm chửa mười hai Khi ấy, đầu cịn để hai trái đào Nó biết cầm vững chổi để quét nhà thổi niêu cơm con khơng sống, khơng khê Mẹ vốn nghèo từ trứng nghèo ra, nên hay liệu, hay lo Thị nghĩ rằng Con lớn rồi, phải uốn nắn nhà vườn ít, ruộng khơng, cửi vải khơng, nghĩa cơng việc chẳng có gì; nhà chơi; để mặc lổng chạy ngồi đường, đánh chắt, đánh ơ, hư thân; chi cho ăn với người ta, để người ta bắt cất nhắc việc nọ, việc cho quen tay; có việc làm biết việc mà làm, nhông nhổng chơi quen, đến lúc phải làm tất gờ guộng chân tay, chẳng đánh đổ đánh vỡ kia, thứ gái mà cầm đến gầu tát làm sao, đưa cho đám mạ cấy nào, bảo ngồi lên khung cửi nhắc lấy thoi lúng ta lúng túng, thứ gái đáng cho hùm ăn thịt Thị định cho Dần để học cho quen công việc cửi vải, ruộng vườn, sau độ thân lợi xa xơi Nhưng lại cịn lợi nhãn tiền nhà đỡ miệng ăn Nếu bớt ngày vài lẻ gạo, em Dần no Rồi có đồng cơng hay Mà chẳng năm người ta thí bỏ cho quần, áo Bố mẹ, chẳng nhờ chẳng cịn phải lo lắng vào thân 2vào nhà bà chánh, cố nhiên Dần chịu được, Dần sung sướng khác Con người ta, có cơm vào có da, có thịt Chẳng lâu đâu Người mẹ nghĩ mừng Thị vài, ba tháng sau, Dần ngày rỗi rãi chơi với em, nhà ngạc nhiên thấy béo cun cút Mà trắng, mà đẹp, mà lành lặn, phết cô gái lắm! Mơ ước hão! Bởi lâu nay, Dần có thật, gầy que Nó khóc hu hu Nó địi nhà với em, muốn cho ăn cho, muốn bắt làm bắt, đừng bắt cho nhà bà chánh Cơm nhà giàu khó nuốt ăn họ mà khơng làm lợi cho họ họ làm phải mửa mà giả họ Dần chân yếu tay mềm Nó nhịn đói mà cửa, nhà cịn Mẹ Dần định khơng nghe Thương để bụng Nng giết Trẻ đứa chả thích nhà với bố, với mẹ để chẳng người động đến thân? i cho nhà người ta, ăn cơm người ta, lấy cơng người ta, cố nhiên phải làm cho đáng cơm, đáng công người ta Làm khơng người ta thiệt người ta xót Người ta xót người ta phải nói Nói, nghe chớ, khơng nghe người ta phải chửi, phải đánh Người ta đánh chửi cho phúc nhà đấy, khơng đánh, khơng chửi, có nên thân người được? Thị bảo Dần "Mày có hư người ta đánh; đánh đánh tao không thương chút nào; mày muốn sống, nhà bà chánh mà ở, khơng đâu mặc kệ! Tao khơng chứa, tao khơng lấy ni mày " Hỡi ôi! Người mẹ đáng thương Dần chết đến hôm năm Nghĩ đến mẹ lúc nào, Dần ngậm ngùi Bởi bà nói thế, bà chẳng nghĩ đâu Khi cố làm mặt hắt hủi Dần chịu rồi, bà ơm mặt khóc hu hu Bà bảo chồng rằng "Nghĩ đến lúc thương đứt ruột Nhưng biết làm sao? Trời bắt tội nghèo Nó nhà ăn chẳng bữa no ã đành ăn không no, cịn sướng nhà bà chánh, ăn no Nhưng liệu có ni suốt đời khơng? Rồi vài ba tuổi nữa, có thương đến nó, xin cho nhà người ta, đừng gả hay sao? Về nhà chồng mà thổi cơm khơng chín, qt nhà chẳng nên liệu người ta có khỏi đào ơng, bới cha khơng? Vả lại đời cịn dài Khơng bắt ép mình, ép xác cho quen, khổ vào thân Mình nghĩ đến nhiều có phải bắt để hịng lợi năm vài đồng bạc công đâu?" Bố Dần chẳng nói Ơng thở dài Nhưng ơng ngơ ngẩn hàng ngày, hàng buổi nhớ Về sau, em Dần lại kể với Dần thế, nên Dần biết Dần không muốn làm khổ cha mẹ nữa, nên khổ đến chết đành cắn mà chịu, khơng dám khóc lóc địi Lâu dần quen Cái khổ thơi Nhưng người ta định chịu, khổ mà khơng chịu Dần cho nhà bà chánh Liễu hai năm Nó nhà từ dạo đầu giêng Vụ mùa năm ngoái, mẹ Dần tả cơn, lại không chịu kiêng khem, làm; mưa nắng nhiễm vào người - mà sức người vừa ốm xong bao nhiêu? - Thị phải lại trận kịch liệt chết Thành thử nhà cịn bố, đàn ơng, với hai đứa trẻ con, vắt gỉ mũi chưa sạch chúng chưa biết làm Hai đứa áp với Dần, giá trời chúng nên người đứa thổi nồi cơm, đứa quét nhà; năm xưa, hai đứa lên đậu cách có vài ngày, chết, cách có vài ngày Bố Dần, cố đợi hết năm, đến nói với bà chánh Liễu xin cho gái Dần nhà coi sóc em, chăm sào vườn bòn bán, nhặt nhạnh bố làm Bốn bố lịu nhịu nuôi Con nhà nghèo thường sớm biết, sớm khôn Dần mười lăm mà quán xuyến việc nhà, biết suy tính, biết liệu lo, chẳng người nội trợ sành sỏi 3hạt muối sinh nốt mua vài xu chẳng hàng chịu bán ồng tiền thành rẻ q Cơng làm có cao hơn, chẳng thấm vào đâu Trước kia, người làm ngày hào rưỡi gần đủ nhà ăn; ngày ba hào, tiền gấp hai, đem đong gạo chưa góc ngày xưa, người ăn hết Ngày làm vậy, cịn ngày nghỉ có phải ngày có người th đâu? ã lại cịn bão, lại lụt, lụt chán, đến vụ chiêm lại giở trị đại hạn Rồi nhà giàu, chúng khơng thể chơn bạc giấy, định để thóc mọc mầm nhà không chịu bán Gạo ngày giá Khơng biết làm tiền mà đong? Một đêm, sau than thở với hết trống canh rồi, bố Dần thở dài bảo rằng - Cơ cực này, cịn nhà, đến chết đói lũ mà thơi Bây mà cịn thế, đến tháng hai, tháng ba cịn khổ đến đâu? Bố có thân phải liệu dần C ũng chẳng cịn ngày mà Tết, thơi ta cố mà chịu qua giêng tính - Thầy bảo tính nào? Nhà có cấp làm thuê Thời vụ lại hết Qua giêng, mười ngày nghỉ, chưa có ngày có việc - Ấy lại cần phải tính Nếu có việc cịn phải lo nữa? Chẳng cơm cháo, miễn khơng chết lả Nhưng khơng có việc! Cho nên tao định lên rừng chuyến - Eo ơi! - Việc mà "eo ôi?" Bây người ta chợ Nghe nói làm ăn cịn dễ Làng ta, cánh nhà ông trương Huấn đấy, họ tất anh em, mà anh có tiền - Tiền rừng, bạc bể chả dễ nuốt đâu Vơ phúc mà ngã nước chuyến lại được! - Thì đến chết cùng, gì? Cịn ngồi nhà mà chết đói Thế mày bảo khơng liều thân thế, cịn xoay xấp để kiếm tiền nữa, nào? ồ mà thật Dần chẳng biết đáp Nó đành Câu chuyện ngắt vài phút Trong ấy, hai nghĩ ngợi Dần hỏi - Cả chúng à? - Không Tao trước, xem Dần vội kêu lên - Chịu thôi! Chúng chả dám nhà đâu êm hơm có ba đứa trẻ ranh! Nó sợ có nắm gạo hay củ ráy, củ khoai khơng giữ mà ăn Nhưng thầy bảo - Tao liệu chỗ Vườn đất với em, tao nhờ Lữ trơng nom Bịn bán chả đủ cho hai đứa chúng ăn Mà khơng đủ tao đến Cịn nó? Chắc thầy lại định cho cho nhà bà chánh Liễu hay nhà khác "Thì được! " Dần nghĩ Cái thân nó, có cần gì? Nhưng nghĩ đến cảnh nhà tan tác mà buồn Rồi bố nơi, nẻo, chị em đứa nhờ vả người Nó nói lời để can cha, cha bảo - Cịn mày tao cho người ta cưới Chuyện cưới xin khiến Dần thèn thẹn Thành thử lại khơng tìm câu để nói Vẫn người bố nói - Thơi trước sau lần Có rùi gắng chẳng rùi gắng Mắc người ta xin cưới lần Tao khất hết tang bu mày đã; người ta định xin lo trước Chết gái người ta cưới rồi nhà người ta neo người; khơng cưới mày đứa sai vặt khơng có Vả lại chỗ người ta với mình, khơng lẽ nào? Người ta ăn phải phải ăn phải, thấy người ta nói mãi, tao nể 4- Nể! Nể gì! Thầy bảo rằng mẹ chết rồi, hai em cịn dại, có lớn tí phải nhà để thổi cơm, nấu nước - Thì tao bảo người ta Nhưng người ta không chịu - Không chịu khơng chịu nào? Quyền cịn - Thì quyền cịn mình? Cho nên người ta có dám bắt đâu? Người ta cố nài Người ta nói khó với Tao thề với mày hai ba lần bà khơng khóc với tao, tao chết! Rồi bà lạy Bà bảo Thế này, ông ạ ông khổ, cịn khổ ơng, thầy cháu chết đi, tơi có cháu trai, ơng cố thương tơi " Như tao cịn biết từ chối người ta cho tiện? Rồi thầy Dần nói nhỏ 5Ai cười đến hạng nhà chúng ta? Còn tiền nong chẳng nên xin thêm đồng phải hồi mẹ cháu mất, cất lấy hai chục đồng bạc bà, phải nghĩ, phương ngơn dạy rằng giàu bán chó, khó bán con; tơi cịn đồng cơng, đồng nợ, tất độ mười đồng, kể bắt bà trả không dám bắt, xin thêm dăm đồng để trang trải chỗ vay mượn để lo cho bu cháu, hồi bu cháu Như tiền cháu, cháu bỏ để trả nghĩa cho bu cháu Tơi khơng dám tơ hào vào tao nói dối bà thế, công nợ tao chưa trả vội; tao nắm lấy dăm đồng ấy, để giêng lên rừng Câu chuyện đêm hôm Dần thầm nhắc lại, đưa đẩy chổi cùn mặt sân Bởi hơm ngày bà mẹ chồng đến rước Dần êm hôm qua, đợi hai đứa bé ngủ rồi, hai cha lại thở dài, thở ngắn với Dần khóc đến nửa đêm, thiếp lúc chẳng biết Sáng dậy, Dần có cảm tưởng chợp mắt tý Nó thấy người mỏi mệt Dù vậy, chạy ngồi qt thóc Dần qt xong đằng đơng, mặt trời nhô lên Những tia sáng chọc thủng sương, xé toạc ánh sáng tràn Trong khoảnh khắc, trở nên quang hẳn Dần ao, rửa mặt Lúc trở nhà, thấy bố hai em dậy Hai đứa con, đứa ôm đùi cha Người cha ngồi lử thử, lừ thừ ôi mi mắt trông sưng Dần cúi mặt, đốn đêm hơm qua, cha khóc Nó vờ tìm chổi, biết nhà khơng cịn chổi nữa, ngồi vừa qt để ngồi đầu chái Thầy bảo - Hơm mày phải xuống chợ tý đi, - Mua bán mà chợ? - Mua xu chè tươi, với cau Người ta đến, phải có bát nước, miếng trầu tươm tất chứ? - Chào! Vẽ chuyện! - Sao lại vẽ chuyện? Khơng có, khơng coi Dần cười tủm tỉm Thằng em lớn, tỳ tay lên đùi cha, múa may tay nhún nhảy người, giễu chị - Lêu lêu! Lêu lêu? Có người lấy chồng Lêu Dần khoặm mặt, lườm em Người cha sợ gái nhìn xấu hổ, củng vào đầu trai mắng nó - Im thằng này! ể cho người ta dặn Mua độ hai xu chè - Rầy hai xu, hàng chè chả bán Dần kêu lên cố cười to khỏi thẹn Người cha cười hỏi - Hai xu khơng bán, xu bán? - năm xu Mua khơng có tiền trả lại - Thì mua năm xu Năm xu nấu ấm? - Một ngàn ấm Ông lão đời không chợ, tưởng chè rẻ Quen với ngày xưa, độ xu ấm năm xu, nấu đặc ấm hết xoắn Thầy Dần lè lưỡi ra - Èo! Mẹ ơi! - Thật Khơng có thế, cổ mà chặt? Muốn mua mua, chẳng mua đừng, đắt ngang ngang với nhân sâm - ắt phải mua Năm xu chè, với hai cau ngon ngon tý - Cau ngon phải tám, chín xu - Vị chi ba xu miếng trầu? 6- Trời đất ạ! Có đời vậy? Cái thổ tả đắt! tao bảo Cái lúc chẳng nên giở giang làm Mọi đồng tốn Giá làm độ mươi lăm cỗ, đến năm chục bạc Miếng bùi chui qua cổ; ăn bữa có no đời đâu, mà người ta phải chạy cỗ cho họ đương nhà khổ Thà ta chước hết? - Ấy thầy Cái chước! Thành thử theo khơng - Theo khơng Mẹ mày theo không tao Thế mà ăn với mãi, sinh đẻ cái, mà lại thương yêu tám cặp vợ chồng cưới linh đình Mẹ kiếp! Lắm đám cưới linh đình, mà lại chả bỏ ùn ùn à? Dần lại cười tủm tỉm Bởi nhắc đến vợ, thầy nhớ điều - Tý quên! Con nhớ mua nén hương Hôm ngày cưới con, cỗ bàn chả có thơi, nén hương khơng có nốt phải tội Cái ý - nhớ tưởng đến người khuất - khiến hai bố buồn bã Mắt rơm rớm nước, thầy thở dài bùi ngùi bảo - Biết vậy, tao bảo bà biện mâm để cúng bu mày Người sống, chẳng có thơi, người chết Dần thổn thức Nó sợ cịn đứng khóc ịa lên Nó cố bảo - "Thôi! Con chợ " chạy Ra đến sân nghe thấy thầy bảo - Ừ Xế chiều hôm ấy, bà mẹ chồng chồng Dần đến Cả hai mặc quần áo cánh Bà mẹ khoác áo nâu dài bạc vai Chú rể xách chẽ cau, chừng chục Vào đến nhà, y lúng túng đặt đâu Bà mẹ trông thấy bảo Dần - Cho bu mượn đĩa đi, con! Mặt Dần đỏ bừng Hai đứa em nó, trơng thấy, cười rúc Nó lợi dụng câu sai mẹ chồng, để chạy tót chái đứng Một lúc lâu khơng vào Thầy phải đỡ lấy chỗ cau tay bà mẹ chồng, đặt lên giường thờ mẹ Rồi thầy nói thật to - i nấu nước con! Không thấy gái thưa, ông phải bảo thằng trai lớn - Chạy bảo chị đun ấm nước Rồi ơng thân hành lấy chìa vơi để têm trầu Bà mẹ chồng có lời ngay - Thưa ơng, ơng có lịng thương đến cháu, mà xét ra, thật ơng thương q, thương nhẽ, ơng châm chước cho cả, khiến cảm tạ bụng ông mà lại lấy làm xấu hổ cách xử Chúng xử thật Nhưng lạy Trời, lạy ất! Chúng muốn nghĩ ông trời ông cho nghĩ đến thôi, phải rầu lịng mà chín bỏ làm mười, ông thật bỏ làm mười, mà không bỏ làm mười Có cơng việc cháu xong xuôi Giá phải bố vợ bố vợ nhà khác, nhất bắt đủ lề lối, nhà nhà chúng tơi lấy mà lo được? cháu suốt đời khơng có vợ Nhưng phúc làm sao, lại gặp ơng bố vợ thương rể ơng, có phải ơng trời ơng cịn thương nhà chúng tơi lắm khơng? Thơi ông thương cho cháu rồi, hôm tiện ngày, biện cơi trầu đến kêu với ông để ông cho cháu lễ cụ - trước lễ gia tiên, sau lễ bác nhà ta, sau ông lại cho cháu lễ sống ông, chẳng có tiền bạc gạo lợn, hay mâm cao cỗ đầy phải lấy đầu làm lễ gọi chút lòng thành con, cháu cụ - xin phép ông để đưa cháu nhà làm ăn áp lại lời bóng bẩy, xa xôi ấy, ông bố vợ trả lời gọn thon lỏn câu - Vâng! Mời bà ngồi chơi thư thả xơi nước, xơi trầu 7- Hễ nước bắc lên đây, nhé! Rồi ông ngồi lử thử Bởi ơng buồn Chỉ lát người ta rước Dần êm hơm nay, cịn ơng với hai đứa trẻ Nhà vắng ngắt vắng ngơ, chẳng khác ngày vợ ơng chết Rồi mươi bữa, nửa tháng ông phải bỏ nốt hai đứa trai để ngược Chao ôi! Buồn biết mấy? Ông đờ đẫn người Ông nghĩ bụng rằng giá Dần nhà người ta, có lẽ chẳng đời ơng phải lên rừng; ông nhà với ba con, bố đùm bọc lấy nhau, bỏ lại hai đứa bé mà đi, ơng thương chúng q A ơng phải nơi khác làm ăn, cớ khác mà Dần phải lấy chồng, Dần lấy chồng, không trông coi vườn đất, nhà cửa, cho ông Ông buồn Ông đáp lại câu dài dịng bà thơng gia câu ngắn ngủn Bà thông gia, trái lại nhiều lời Bà vui vẻ Bà nói ln Bởi tài ăn nói người ta, đời có dịp dùng đến độ vài lần Bà lần thơi, bà có mống trai Lấy vợ cho con, đâu? Nhất lại khơng có nhiều tiền Cơng việc phải qua mươi nấc, mươi cầu Chưa cưới vợ cho con, cịn lại mỏi chân, van ông lạy bà sái hàm Công việc bà, mười phần xong đến chín phần Cịn tý chút mà thơi Tội khơng ngào với người ta cho yên ổn Người ta gả gái, chẳng phải lời nói mát lịng, mát ruột cho ến tối, đám cưới Vẻn vẹn có sáu người, nhà gái nhà trai Ông bố vợ tưởng không Nhưng bà mẹ chồng cố mời Vả lại ơng khơng đi, hai đứa bé khơng thể mà Dần khóc lóc Nếu có có lẽ khơng chịu nốt Ơng đành kéo cành rào lấp ngõ Dần không chịu mặc áo dài bà mẹ chồng đưa, lại bà khốc áo vai Dần mặc áo vải ngày thường nghĩa quần cồng cộc xẫng đụp miếng vá thật to, áo cánh nâu bạc phếch vá nhiều chỗ lắm, bên tay rách quá, xé cụt gần đến nách Nó sụt sịt khóc, bên cạnh mẹ chồng Chú rể dắt đứa em lớn Dần Cịn thằng bé ơng bố cõng Cả bọn sương lạnh bóng tối gia đình xẩm dắt díu tìm chỗ ngủ ến nhà trai, bà mẹ chồng mời bố Dần uống nước ăn trầu Rồi bà giết gà, dọn cho ba bố ông mâm cơm Dần vừa thẹn vừa buồn không chịu ngồi ăn Ba bố lặng lẽ ăn Người cha ăn có vài lượt cơm, bng bát đĩa, ngồi xỉa đợi cho hai đứa ăn Ông thúc chúng ăn nhanh lên, kẻo khuya Thằng lớn cơm phùng mồm ra, bị nghẹn lần Khi hai cơm, ông cho chúng uống nước đứng lên, chào bà mẹ chồng Dần để Ông dắt thằng lớn cõng thằng bé lưng Dần đứng đợi cha ngồi sân Nó cịn dụi mắt Người cha ngại, đứng lại nhìn thống âu yếm bảo - Thôi! Thầy cho em Dần khóc nấc lên Hai đứa em khơng cịn chế nhạo Thằng lớn chực khóc Thằng bé ngây mặt khơng hiểu Người cha mắng yêu con - Mẹ chúng mày! Bà mẹ chồng thấy Dần khóc quá, chạy Bố Dần vội bước Dần chạy theo cha, nức nở - Thầy! Thầy - Mẹ mày! nín cho thầy - Thầy đừng lên rừng! Người cha thấy lòng thổn thức đáp liều - Ừ, thơi Mẹ mày! 8 - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn Một Đám cưới - Nam Cao,
Vanvn- Nhân kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Nam Cao – Cái truyện sẽ làm cho Nam Cao rất nổi tiếng, thậm chí làm nên thương hiệu Nam Cao sau này, đó là Chí Phèo, viết năm 1941, mang tên Cái lò gạch cũ, khi tác giả 26 tuổi. Cái lò gạch cũ nằm trong một chùm truyện gửi đến Nhà xuất bản Đời Mới, suýt bị bỏ quên trong bồ rác, may được Vũ Bằng moi ra, đọc từ dòng đầu đã thấy lạ, liền đọc luôn một hơi, rồi quyết định cho đưa nhà in, với cái tên mới là Đôi lứa xứng đôi, kèm một lời tựa của Lê Văn Trương; một lời tựa rất ngắn mà nói rất hay, rất trúng đặc sắc của tác giả. Thế nhưng từ khởi đầu may trong rủi ấy, hành trình viết của Nam Cao vẫn rất lận đận, dẫu nhiều chục truyện ngắn vẫn lần lượt được in trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật. Xen với truyện ngắn là một số truyện dài như Ngày lụt, Cái bát, Cái miếu, Một đời người phải bán đứt bản quyền cho các nhà xuất bản để sớm có tiền, mà vẫn không được in, rồi đành để mất. Chỉ riêng Truyện người hàng xóm là được đăng tải trên Trung Bắc chủ nhật từ tháng Tư đến tháng Chín – 1944. Còn tiểu thuyết Sống mòn “viết xong tại Đại Hoàng ngày như được ghi ở cuối sách, thì đương nhiên là không thể in; rất có thể cũng sẽ chung số phận với các tiểu thuyết khác nếu không được Tô Hoài giữ hộ và mang theo trong ba lô lên Việt Bắc; rồi phải chờ đến 1956, sau khi Nam Cao mất 5 năm mới được in ở Nhà xuất bản Văn Nghệ. Bốn nhà văn, nhà báo Tô Hoài, Xuân Thủy, Nam Cao – Báo Cứu Quốc thứ nhất, thứ hai và thứ tư từ trái qua và Nguyễn Huy Tưởng – Báo Văn Nghệ. Ảnh Trần Văn Lưu Một đời văn có thể xem là lặng lẽ, chưa lúc nào tự thỏa mãn và yên tâm, hoặc tự tin về mình – một tâm thế viết rất khác với nhiều bạn văn cùng thời, không kể Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng mà ngay cả với Tô Hoài – người kém ông 5 tuổi, nhưng vào nghề lại may mắn hơn ông. Bằng chứng là Nam Cao không có tên trong bộ sách Nhà văn hiện đại, gồm 79 người, của Vũ Ngọc Phan. Bằng chứng là trong Bản tự thuật Nam Cao gửi Ban tổ chức của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1950 có một dòng “… trước 1945 không xuất bản được tác phẩm nào đáng kể”. Rồi sau đó chỉ hơn một năm là chuyến đi công tác vào vùng hậu địch Liên khu Ba, trong Đoàn cán bộ Thuế nông nghiệp, bị địch phục kích; cả mấy người cùng bị bắn và dồn vào một cái hố chôn chung; phải 46 năm sau thi hài mới được đưa về làng quê Đại Hoàng – một tên làng đã vào văn Nam Cao mà trở nên nổi tiếng làng Vũ Đại. Như vậy, nói Nam Cao là nói một số lượng trang viết không nhiều, so với các bạn viết trước và đồng thời với ông… Cái đã được in gồm khoảng ngót 60 truyện ngắn đăng tải trên báo, một số trong đó được gom vào hai tập trước 1945, là Đôi lứa xứng đôi Nxb Đời Mới; 1941, Nửa đêm Nxb Cộng Lực; 1943; và sau 1945 là Cười Nxb Minh Đức; 1946; 8 truyện viết cho thiếu nhi nay chỉ mới sưu tầm được 3; một truyện dài chỉ mới được đăng tải trên báo trước 1945; dăm truyện ngắn cùng trên một chục bút ký, nhật ký, ghi chép viết sau 1945. Cho đến ngày hy sinh, có thể nói Nam Cao chưa được hưởng những gì gọi là hào quang, hoặc vinh quang của nghề. Phải sau khi qua đời, với bài Điếu văn của Nguyễn Huy Tưởng đọc trong Lễ truy điệu ngày ở Việt Bắc; và bài Nam Cao của Nguyễn Đình Thi viết tháng đăng trên Tạp chí Văn Nghệ; rồi tiếp đó là hai hồi ký của Tô Hoài in trên báo Văn Nghệ – năm 1956 thì tổn thất về Nam Cao mới thật sự thấm thía không chỉ trong giới nghề nghiệp mà là cả công chúng đông đảo. Cũng từ đây, qua Sống mòn lần đầu được in, năm 1956, qua Chí Phèo – sau lần in thứ hai năm 1957, và nhiều chục truyện ngắn trên các báo lần đầu được sưu tầm và gom lại trong hai tập Truyện ngắn Nam Cao hóa; 1960 và Một đám cưới Nxb Văn học; 1963 thì giới nghiên cứu, phê bình và bạn đọc rộng rãi mới có cơ hội nhận diện một gương mặt tác gia văn học xuất sắc trong giòng văn học hiện thực trước 1945. Một tác gia thực sự có gương mặt riêng, để không những không bị khuất trong bóng rợp của những người đi trước, mà còn tự mình xác lập một vị thế mới; vị thế, theo tôi – đó là sự tiếp tục đưa lên đỉnh cao và kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực 1930-1945. *** Giá trị Nam Cao được khẳng định trước hết qua những truyện ngắn viết về làng quê Việt Nam những năm tiền cách mạng qua một nghệ thuật viết không hề lặp lại dấu ấn của tất cả những bậc tiền bối, gồm không chỉ các tác gia của Tự Lực văn đoàn như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, mà cả những tên tuổi lớn của trào lưu hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng. Đúng như lời một nhân vật của chính tác giả Cái nghề văn kỵ nhất là thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào. Tựa như trong văn học Nga phải vạch ra một lối đi mới sau các đại thụ tỏa bóng rợp cuối thế kỷ XIX như Ngay từ những truyện đầu tay Nam Cao đã rất có ý thức đem lại một nhận thức mới về người nông dân Việt trong bối cảnh làng quê đang trong một quá trình băng hoại theo hai hướng bần cùng hóa và tha hóa, nhưng tự trong căn rễ vẫn bảo lưu một giòng chảy làm nên gương mặt văn hóa, phong tục, đạo lý dân tộc trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Mỗi truyện ngắn Nam Cao như Một đám cưới, Một bữa no, Lão Hạc, Dì Hảo, Tư cách mõ, Mua danh, Đòn chồng, Rửa hờn, Rình trộm…, không chỉ là một lát cắt tươi rói của cuộc sống mà còn là những chạm khắc rất ấn tượng về những chân dung người làm nên gương mặt dân tộc một thời, thời đứng trước hai chuyển động lớn – đó là sự bần cùng hóa với những cái chết, chủ yếu là chết đói như một tiên báo cho thảm cảnh hai triệu người chết trong năm Ất Dậu; và mặt khác, là một khát vọng thoát ra khỏi mọi bủa vây dầy đặc của một sự sống đang trong… chết mòn “chết mà chưa làm gì cả; chết mà chưa sống”. Trên hành trình thâm nhập sâu vào những thảm trạng của bần cùng hóa, có một nhánh rẽ là sự tha hóa, với nạn nhân hoặc tội nhân tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo. Đó là cái tên rồi sẽ đưa Nam Cao lên tầm cao một phát hiện mang tầm vóc thế kỷ, tựa như của Lỗ Tấn, tựa như Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng. Quả hiếm, hoặc chưa có một nhân vật nào trong văn học Việt hiện đại có được một sự sống bền lâu và lan rộng như nhân vật này của Nam Cao, do sự kết hợp tính độc đáo và tính phổ quát trên tất cả các phương diện của sự miêu tả; do cái cá biệt và cái phổ biến của hình tượng là đạt tới độ tuyệt vời viên mãn; do cái sức nhìn sâu và rọi xa của một nhà hiện thực lớn; và do một cảm quan nhân đạo kết nối được những gì trái ngược mà làm nên các nghịch lý và nghịch cảnh của đời. Gắn với số phận người nông dân còn là cảnh ngộ của người trí thức nghèo – những nhà văn nghèo, những anh giáo khổ, trong một sự sống… mòn, và những kiếp đời… thừa. Khác với nhiều bạn văn, Nam Cao viết tiểu thuyết cứ như là viết tự truyện. Nhưng sau tất cả những Thứ, Điền, Hộ…, hoặc những gã, hắn, y… đó là sự khái quát chân dung một lớp trí thức có gốc rễ nông thôn, luôn mang khát vọng tìm đến một sự sống tinh thần có ý nghĩa; nhưng cuối cùng vẫn bị “áo cơm ghì sát đất”, càng dẫy dụa càng bị lún sâu hơn vào trạng thái… chết mòn; nó là một phát hiện rất kỳ thú của Nam Cao, in rất đậm một cảm quan mới về hiện thực ở Nam Cao. Và, như vậy là, với mở đầu bằng tập truyện Chí Phèo, và kết thúc bằng tiểu thuyết Sống mòn; chỉ trên dưới 5 năm – Nam Cao đã tạo ra được một thế giới riêng, in đậm một cảm quan mới về hiện thực, khác với tất cả các bậc tiền bối trên cả hai giòng lãng mạn và hiện thực. Riêng đối với tiểu thuyết, thì Sống mòn, quả đã làm được một cuộc cách tân thật ngoạn mục, nếu nhìn ngược về trước chỉ khoảng 20 năm với Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách – người khai mạc nền văn xuôi hiện đại. Một bút pháp tự sự độc đáo. Một chủ nghĩa hiện thực tâm lý nghiêm ngặt. Một cảm quan hiện thực nhìn từ bề sâu, bề trong. Một khát vọng nhân văn được chiêm nghiệm và đúc rút từ chính bản thân. Một khả năng khám phá và dự báo. Một cách khái quát giầu sức chứa và sức mở… Tất cả đã đem lại cho thiên tiểu thuyết may mắn còn sót lại và cũng là có một không hai này những giá trị có thể nói là ổn định, là trường tồn. Đây là cuốn tiểu thuyết không có cốt, không có truyện, không có gay cấn và ly kỳ; bối cảnh truyện chỉ là sinh hoạt của mấy nhà giáo dạy tư, nhưng sao lại có sức gắn đến thế với cả cuộc đời rộng lớn; cái tiếng thì thầm của tác phẩm lại có sức ám ảnh đến thế đối với nhiều lớp người trong hành trình cuộc đời giữa bao thăng trầm của lịch sử. Cuốn tiểu thuyết tự tách ra một lối riêng, giữa bao nhiêu kiểu dạng giống nhau hoặc khác nhau, từ văn xuôi lãng mạn sang văn xuôi tả chân – xã hội; và trong khi trung thành đến từng chi tiết của đời riêng và tràn ngập những chuyện đời tư, trong khi hội nhập được hai mặt tương phản của sống và chết, của sự sống và cái chết trong một định nghĩa mòn lại nói được bao điều vừa tủn mủn vừa lớn lao của nhân thế. *** Để nói về đóng góp của Nam Cao, tôi muốn gom lại trong một vài nghịch lý. Trước 1945, gần như Nam Cao không viết gì khác ngoài bản thân mình, và làng quê mình. Tất cả những Thứ, Điền, Hộ, rồi những gã, hắn, y được Nam Cao đưa vào truyện như là tự truyện của mình, như là tấm gương của chính đời mình. Thế mà rồi không chỉ một lớp người một thời có thể vận vào mình, mà cho đến hôm nay, không biết bao tầng lớp, bao thế hệ có chung tên gọi tri thức, vẫn cứ thấy bóng dáng mình trên từng trang văn Nam Cao, trong bươn chải, vật lộn để chống đói, để khỏi chết đói, và để thoát… mòn. Nam Cao không viết gì khác ngoài cái làng Vũ Đại quê ông. Nhưng rồi ra, dường như tất cả những cái làng quê Việt Nam tiền Cách mạng đều được thu nhỏ vào đấy, với sự lưu cữu, sự xếp lớp nhiều tầng các mặt tốt – xấu, vừa trái ngược nhau vừa bổ sung cho nhau. Những chuyện no đói và sống chết. Ma chay và cưới xin. Xó bếp và chốn đình trung. Mua danh và đi làm mõ… Rồi ăn và mặc. Làm lụng và sinh nhai. Chuyện con chó của Lão Hạc có tên cậu Vàng, lại chuyện người hẳn hoi có tên cái Cún con hoặc anh đĩ Chuột. Nhưng kỳ lạ thay, cho đến nay, cái tên làng Vũ Đại vẫn chưa chịu lùi hẳn vào quên lãng. Vũ Đại – không chỉ gợi một đơn vị làng với những ao chuôm, những lũy tre, vườn chuối, giàn trầu quen thuộc, mà còn là biểu tượng chung cho sự phong bế, trì trệ, nhếch nhác của bất cứ quần thể cư dân nào, cả nông thôn và thành thị. Rồi còn là Chí Phèo, và nói Chí Phèo không được quên Thị Nở, một “cặp đôi” gần như “hoàn hảo”. Chí Phèo là cư dân của làng Vũ Đại. Nhưng cho đến hôm nay Chí Phèo là của khắp nơi. Anh nông dân cố cùng Chí Phèo không có tuổi trong cái truyện ra mắt cách đây 75 năm, bây giờ thật là trường thọ, và cũng không còn là của riêng làng Vũ Đại. Chí Phèo trong truyện của Nam Cao chưa bao giờ ra tỉnh, nhưng biểu tượng Chí Phèo hôm nay có mặt ở mọi công sở, cơ quan, trường học, bệnh viện. Bởi lẽ anh ta đã trở thành đại diện cho cái phần bản năng, phần khùng điên, khuất tối ở con người. Chí Phèo, ấy còn là cả một ám ảnh cho không ít quần thể người, cho không biết bao người lương thiện. Những gì của Nam Cao, in dấu ấn Nam Cao, mang giọng điệu Nam Cao, thành sở hữu của Nam Cao đã được đón nhận ở tính phổ quát của nó, tính đại diện của nó; và ở nghịch lý này mang đầy đủ nhất giá trị văn học của tác phẩm, mang rõ nét nhất chất văn ở một tác giả. Nam Cao – chỉ bút danh ấy đủ nói với ta về sống mòn và chết mòn, về đời thừa và nước mắt, về giăng sáng và nửa đêm, về một bữa no và đòn chồng, về cười và điếu văn, về truyện tình và những chuyện không muốn viết, về những cánh hoa tàn và một cái mặt không chơi được1… Tóm lại, đó là cả một trữ lượng bên trong, một của kho dư đầy về con người và đất nước, về trí thức và nông dân, về nông thôn và thành thị, về người lớn và trẻ con, về đàn ông và đàn bà, về những người lành lặn và những kẻ dị dạng…, những vế vừa gắn bó, vừa như đối lập, thế nhưng bao giờ cũng tìm được sự hội tụ và hòa hợp ở văn ông. Có lẽ rõ hơn một số người viết khác, ở Nam Cao – đời sống và đời văn là gắn bó với nhau như hai mặt một tờ giấy mỏng, soi bên này mà thấy cả bên kia. Soi vào văn ông để thấy đời; và soi vào đời để nhận thêm các giá trị từ những trang văn im lặng. *** Từ trạng thái chết mòn của một thế hệ trí thức, và từ những cái chết thật vì đói hoặc vì khùng điên của người nông dân một vùng quê, Nam Cao đã đón nhận Cách mạng tháng Tám thật sự như một cuộc đổi đời. Nhà văn mảnh khảnh, cao gầy, dáng thư sinh, với bản tính rụt rè, ít khi nói to đã tham gia gần như đủ đầy tất cả những hoạt động xã hội của làng quê và của đoàn thể – từ là Chủ tịch xã, làm báo, viết tin, tham gia đoàn quân Nam tiến, rời quê ra Hà Nội, rồi lên Việt Bắc, ở rừng, làm báo Cứu quốc, về Hội văn nghệ, đi chiến dịch Biên giới, rồi vào vùng địch hậu Khu Ba. Ngót 6 năm cho một hành trình cùng nhân dân, từ nông thôn ra thành thị, từ miền xuôi lên miền núi, cùng bộ đội và dân công, với vũ khí vẫn chỉ là ngòi bút và trang viết – những trang viết gắng theo kịp những chuyển động muôn mặt của sự sống, và là một sự sống gắng được soi nhìn bằng một đôi mắt mới, nên rất sớm chuyển được vào đường ray cách mạng. Cách mạng, như chính một tên truyện của Nam Cao in trên Tiên phong số 18 9/1946, với dòng kết thúc “Cách mạng! Mày gây va chạm và chém giết, nhưng chính mày lại mở lối cho con người tiến lên hòa bình”. Sứ mệnh dựng xây, tạo nên cái mới từ trong lầm than, cũ nát của chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu nhe nhắm của Nam Cao qua nhiều trang bút ký, nhật ký, ghi chép như Đường vô Nam, Người Việt mới, Bốn cây số cách một căn cứ địch, Ở rừng, Vài nét ghi qua vùng vừa giải phóng… Đồng thời là sự soi xét lại kỹ lưỡng con người mình trong đối chiếu với sự sống của quần chúng để loại bỏ dần những ủy mị, bi quan không dễ dứt bỏ ở một con người giàu sự sống nội tâm và cả nghĩ như Nam Cao. Và, khi ngòi bút đã là vũ khí thì đối tượng viết trước hết phải là cho số đông, những người còn chưa biết chữ hoặc đang thanh toán nạn mù chữ, cũng có nghĩa là phải hy sinh một phần nghệ thuật. Làm báo trong những ngày “ở rừng”, người duyệt bài đầu tiên của Nam Cao là chú giao thông người Thổ có tên Mộc. Bản thảo Chuyện biên giới viết xong ngay sau khi chiến dịch kết thúc, Nam Cao tự nguyện cắt bỏ từ hàng trăm trang còn dăm chục trang cho gọn gàng, dễ đọc. Viết, và viết – Nam Cao không ngại bất cứ mọi đặt hàng nào của đoàn thể. Viết sách địa lý phổ thông các nước châu Âu, châu Á, châu Phi. Viết bút ký Định mức và kịch Đóng góp phục vụ chính sách Tạm vay và Thuế nông nghiệp. Viết Hội nghị nói thẳng để phục vụ cho công tác tuyên truyền trong quân đội… Thế nhưng tận trong thâm sâu, Nam Cao vẫn nuôi mơ ước viết được một cái gì cho xứng với nghề nghiệp mình theo đuổi. Mơ ước ấy cũng đã một lần Nam Cao chạm được vào nó. Đó là mấy ngày Tết đầu 1948, nơi một làng Mán heo hút ở Vàng Kheo, để “cho đỡ nhớ”, Nam Cao viết xong rất nhanh truyện ngắn Tiên sư anh Tào Tháo. Cũng vẫn là chuyện mình, chuyện của anh nhà văn xưng “tôi” có tên Độ. Nhưng có khác với những Thứ, Điền, Hộ trước đây hoặc “ngày xưa”, Độ bây giờ có một “đôi mắt” mới để đối thoại một cách e dè, khiêm nhường, không chút lên giọng với một bạn văn rất quen thuộc của mình trước đây là văn sĩ Hoàng. Nhiều năm về sau, sau khi truyện được đăng trên Tạp chí Văn Nghệ số 3/1948 với tên mới là Đôi mắt, truyện này được giới nghiên cứu và giảng dạy văn học xem là một “tuyên ngôn nghệ thuật” của Nam Cao; dẫu với cái tạng quen thuộc của mình, ngay ở truyện này, theo tôi nghĩ, Nam Cao cũng không hề có ý định… tuyên ngôn với bất cứ ai. Trở lại những ngày đầu cách mạng, trong bề bộn bao nhiêu việc lớn, Nam Cao bỗng xuất hiện trong một truyện ngắn có tên Mò sâm banh được viết rất nhanh và in ngay trên Tiên Phong số 2 Đây là một trong số các kiệt tác truyện ngắn Nam Cao, ghi nhận một chuyển đổi rất mới của đề tài. Đó là truyện về một người nông dân đầu tiên xuất hiện trong bối cảnh… thành phố. Ở đó, trong vai đầu bếp cho một ông chủ Tây lẳng lặng, không lời bởi cả hai không có phiên dịch, anh ta đã đánh mất mạng sống của đứa con trai trong bể nước chỉ vì để rơi một chai sâm banh của chủ… Hơn hai năm sau là sự xuất hiện của Đôi mắt, cũng được viết rất nhanh, ghi nhận một chuyển đổi quan trọng trong quan niệm nghệ thuật. Và, sau Đôi mắt là một ấp ủ đến nung nấu cho một tiểu thuyết về chính làng quê Vũ Đại của mình, trên một bản thảo đã hai lần bị Nam Cao xé bỏ. Chính trong tâm thế đó mà có chuyến công tác “định mệnh” vào ngày 30 tháng khiến Chúng ta mất Nam Cao; như tên một bài viết thật cảm động của người bạn thân thiết nhất của ông – Tô Hoài. Thuộc trong số người viết văn sớm hy sinh cho Tổ quốc, và nếu chỉ tính thế hệ thành danh trước 1945 thì Nam Cao là người duy nhất, hy sinh ở tuổi đời 36, và tuổi nghề chỉ trên 10 năm. Mười năm – một sự nghiệp gắn nối hai giai đoạn trước và sau 1945; cả hai kết thành một phù điêu bất hủ trong lịch sử văn chương Việt hiện đại. GS PHONG LÊ Văn Nghệ số 49/2021 Xem thêm [Video] – Nhịp điệu mới’ của Ngày thơ Việt Nam lần thứ 21 Nồng ấm Lễ trao giải Cuộc thi viết Về nhà “Tiên học lễ, hậu học văn” – câu khẩu hiệu có cần phải bỏ? Nhìn lại 10 năm Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ được UNESCO ghi danh “Bộ trưởng giải vây” Nguyễn Cơ Thạch
một đám cưới nam cao